Mình biết bác Vương Trung lần đầu tiên khi tình cờ
tìm được cuốn "Mo khuôn" trong một thư viện. Là người Thái nên mình
rất tâm đắc với những cứ liệu về "mo Thái" mà bác Vương Trung đã sưu
tầm và giới thiệu...Mấy năm sau, được gặp bác Vương Trung trong một vài
dịp Hội thảo, mình được dịp nói chuyện tâm tình và được bác coi như một người
bạn…
Ngày 14/ 3 năm nay, lúc mình đang xuất phát lên đường
đi đến Điện Biên tham dự Hội thảo của Hội văn học nghệ thuật tỉnh Điện Biên về
việc tổ chức phục dựng Lễ hội xên mường ở Mường Thanh- mình không thể ngờ rằng
trước đó một ngày, bác Vương Trung cũng đã vĩnh biệt gia đình và bạn bè để lên
đường tiếp tục rong ruổi trên những nẻo đường trên chốn mường Then của
bác…
Bác Vương Trung có tên khai sinh là Lường Văn Trung,
sinh ngày 20/ 10/ 1938. Bác là người dân tộc Thái, quê quán của bác ở xã Mường
Ék, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Bác từng là giáo viên dạy học ở Sơn La, sau
đó làm việc trong ngành văn hóa, nghiên cứu văn học và biên tập sách tại Sơn
La, là thành viên của Ban Văn học dân tộc và miền núi Hội Nhà văn Việt Nam
(khóa V, VI, VII), Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam 1974. Do tuổi cao sức yếu, bác
Vương Trung đã từ trần hồi 5h00 ngày 13/ 3/ 2012 (tức ngày 21 tháng 2 năm Nhâm
Thìn) tại Thị trấn Thuận Châu, tỉnh Sơn La, hưởng dương 74 tuổi…
Những tác phẩm chính: Ing- Éng (thơ tiếng dân tộc và dịch
tiếng phổ thông, 1967); Sóng Nậm Rốm (thơ, 1979); Mối tình Mường Sinh (tiểu
thuyết, 1994); Nhà sàn cổ người Thái Việt Nam (nghiên cứu, 1997); Mo Khuôn
(dịch thơ cổ, 1999); Táy pú xấc (nghiên cứu sử thi, 2003); Chương han (nghiên
cứu dịch sử thi, 2005).
Giải thưởng văn học: Giải B do Sở Văn hóa khu tự
trị Thái – Mèo tặng năm 1958 với bài thơ “Ngắm họt Mường Húa (Nhớ đến Mường
Húa). Giải A giải thưởng năm 1995 của UBTQ Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật
Việt Nam cho tiểu thuyết Mối tình Mường Sinh.
Thay nén tâm hương tưởng nhớ tới bác Vương Trung,
mình xin đăng lại bài viết của Nhà nghiên cứu phê bình văn học Văn Giá - một
người bạn vong niên của bác lúc sinh thời.
Vương Trung – “Mo Mường” thời hiện đại
Nhớ lại, ngày sắp rời Tây Bắc về xuôi tôi được anh
bạn Châu Hồng Thuỷ cho hay: Vương Trung đang sắp sửa hoàn thành một cuốn tiểu
thuyết khá lắm, tầm ngang ngang với Giamilia của T.Aitmatov.
Nghe thế, tôi cũng chỉ ậm ừ, chẳng biết nói thế nào. Thế rồi ông bạn tôi
đọc lên mấy câu thơ này, bảo là rút trong bản thảo tiểu thuyết đó:
Em để mặt trời hồng phía sau/ Phòng khi lưng ớn lạnh/
Trước mặt, mắt phòng xa/ Hai bên, tai đã ngóng/ Mặt trời lẻn về gáy chẳng hay/
Gió tạt ngang, tai nghe thính/ Tối siết mặt, mắt nhìn xuyên/ Sương nặng đầu,
lửa thân bốc/ Em, vẫn đợi tình yêu!...
Nghe xong, như thể vừa được uống chén rượu
ngon, tâm thần rạo rực, bèn hùa theo: “Rất có thể ông này làm mộtGiamilia, hoặc
hơn thế cũng nên...”.
Chuyện bẵng đi từ đấy. Gần mươi năm sau, một hôm nghe
tin Mối tình Mường Sinh của Vương Trung vừa ra mắt, tôi tìm
mua liền. Đọc một mạch. Chưa hẳn do truyện hấp dẫn ngay từ những dòng đầu. Có
lẽ do nhớ Tây Bắc. Nhớ Vương Trung. Nhớ quá nên đọc một mạch. Thế là được sống
lại với sông suối núi rừng bản làng Tây Bắc. Được sống với những đêm múa xoè,
ruợu cần. Được sống lại bóng hình những em gái Thái. Được sống lại từng vạt
rừng hoa ban trắng khắc khoải miên man... Chao ôi là nhớ. Những trang miêu tả
ngày hội chơi hoa ban của con trai con gái Thái Tây Bắc
trong Mối tình Mường Sinh có thể nói đó là những trang văn đẹp
đến mộng mị, đến nao lòng. Ai đã từng sống vài mùa hoa ban Tây Bắc cũng đều ủ
trong lòng nỗi nhớ mưng mưng như thế. Đọc Vương Trung để đỡ nhớ Tây Bắc, đỡ nhớ
Vương Trung. Nhưng thật ra thì đọc Vương Trung lại nhớ Vương Trung, nhớ Tây Bắc
thêm lên... Vương Trung viết truyện như thơ. Đó là một tình ca. Tình ca kể về
mối tình của một chàng trai là thày giáo trẻ tên Sương với một cô gái vùng cao
tên Ơn. Hai người yêu nhau đắm say, thiêng liêng, nồng nàn chung thuỷ, được mọi
người vun vén, lo toan. Về sau, Sương tình cờ phát hiện ra: không ngờ bố của cô
gái này ngầm tham gia cho một tổ chức phá hoại đang chuẩn bị cướp chính quyền
nhân dân sở tại. Sương đau khổ. Cô gái không hề hay biết chuyện này. Kết thúc
tác phẩm là cuộc chia tay của chàng trai đối với cô gái khi anh được dịp nghỉ
hè với nhiều nước mắt, giằng xé bấn loạn giữa tình yêu lứa đôi và trách nhiệm
công dân. Rất may, truyện kết ở đấy. Lúc truyện này ra đời là vào năm 1995, năm
nền văn học đã có những biến đổi theo hướng hiện đại, mà một trong những biểu
hiện của nó là không nhất thiết cứ phải chọn cách kết thúc có hậu mới được cho
là giải pháp tích cực nhất. Để hiểu và chấp nhận một điều tưởng như giản dị ấy
thôi mà cũng phải trải qua mấy chục năm lịch sử văn học. Cách kết thúc đó không
giống như phần kết của truyện thơ Ing- Éng được Vương Trung
viết năm 1976. Đây cũng lại là một truyện tình. Chưa cần nói gì đến nội dung
tác phẩm, nhìn vào bảng danh sách các tác phẩm của Vương Trung đã yên tâm nhận
định một điều: Hồn thơ Vương Trung liên tục cất lên những bản tình ca bất tử
của tâm hồn người Thái ngàn đời. Trong cái điệu hồn điệu sống nồng nàn của đồng
bào người Thái, luôn luôn trữ sẵn cái men tình nồng say để cất thành rượu quý.
Kho tàng văn hoá Thái tích trữ một gia tài rượu quý tình ca nồng nàn vào bậc
nhất trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam . Chuyện chàng Ing và nàng Éng
yêu nhau, Ing đi bộ đội, Éng ở nhà bị ép gả, Éng đợi chờ, bị kẻ xấu dèm pha,
Ing Éng hiểu lầm nhau, Éng bỏ vào lâm trường, kết cục hai người đoàn viên, thề
nguyền tin tưởng... Cốt truyện là một motif dân gian Thái. Vương Trung kể: ban
đầu ông để cho cô Éng đau khổ vì tình, bị ép duyên nên đã vào rừng ăn lá ngón
tự giải thoát. Năm 1963 về trại sáng tác ở Hà Nội, gặp các ông Đỗ Quang Tiến,
ông Xuân Diệu. Đỗ Quang Tiến bảo: Nếu để cuộc tình hai người bí quá rồi cho cô
gái tìm đến cái chết bằng cách tự tử thì không phải là truyện của Vương Trung
nữa rồi, mà là của dân tộc Thái, các truyện dân tộc hay xử lý theo cách đó. Quả
thật, dân tộc Thái là một dân tộc đề cao nước mắt trong tình yêu, lắm khi lấy
cái chung cục mất mát đau khổ làm bài học nhen lên khát vọng cho con người,
cảnh tỉnh con người hãy giữ lấy tình yêu bằng mọi giá chứ đừng vướng vào vòng bi
tình oan khiên ấy nữa... Nghe theo ông Tiến, Vương Trung để cho hai người trải
qua ngờ vực, đau khổ, rồi cho cô gái lên nông trường, chàng trai vào bộ đội,
rồi cuối cùng tình cờ gặp nhau tại nông trường- nơi cuộc sống mới đang thành...
Cách kết thúc tác phẩm tiêu biểu cho một thời văn học
nặng về minh hoạ - điều mà Mối tình Mường Sinh vượt thoát
được. Câu chuyện thì không có gì đáng kể, nhưng đã là truyện thơ, cái quyết
định lại không phải ở cốt, mà là ở lời thơ, tình thơ là chính. Rất may, nhờ có
các câu thơ hay, nên truyện này cứu được. Thơ Vương Trung là tiếng Thái được
tinh luyện, chưng cất mà thành.Trở lại với những truyện thơ Thái, người Thái
Tây Bắc nổi tiếng với những truyện tình Xống chụ xon xao, Khun
Lú- nàng Ủa, những điệu khắp, điệu khèn, những bài hát giao duyên tình tứ.
Vương Trung đến với văn chương cũng bắt đầu bằng thơ. Đầu tiên bằng các bài thơ
lẻ, sau được in thành tập Sóng Nậm Rốm (1979). Bài thơ Núi,
mây và đàn bò đã có mặt trong nhiều tuyển tập của nền thơ Việt Nam hiện
đại. Hồn thơ và tay nghề thơ của Vương Trung đến lúc này đã được dịp thử sức ở
một kích cỡ lớn hơn, trong một thể loại truyền thống của dân tộc Thái, đó là
truyện thơ.
Có lẽ vào những năm bảy mươi của thế kỷ XX, nhiều
người đọc Vương Trung chưa kịp nhận ra điều này: trước sau hồn thơ Vương Trung
dù trong thơ hay văn xuôi vẫn cất lên toàn bộ những biểu hiện sống động nhất
của văn hoá dân tộc Thái Tây Bắc quê ông. Tinh hoa tinh tuý văn hoá của một dân
tộc đi vào văn chương, trước hết ở chất liệu cuộc sống có tính dân tộc học. Để
làm được việc này, nhà văn chỉ cần có tài quan sát và miêu tả cho tinh tế là ổn
rồi. Trong Ing- Éng, Mối tình Mường Sinh không thiếu những
trường đoạn miêu tả cảnh sắc và tập tục vùng đồng bào dân tộc Thái, trong đó
không ít những cảnh chân thực, thơ mộng, rực rỡ. Nhưng nếu chỉ như vậy, có lẽ
mới chỉ là hình xác bên ngoài của văn hoá. Cái có ý nghĩa quyết định để khẳng
định áng văn chương giàu chất văn hoá dân tộc phải là ở diện mạo và chiều sâu
tâm hồn nhân vật được thể hiện qua tâm trạng, lời nói, cách cảm cách nghĩ. Khi
để cho cô con gái từ chối sự ép gả của mẹ cha như thế này thì rõ ràng là ra con
gái Thái, không thể lẫn được: Không ưa, cơm trắng dẻo cũng ngán- Đã
ưa, rau dướng cũng ngon lành- Dù người mặc áo đỏ nhuộm cánh kiến- Không
bằng người yêu mặc áo đen nhuộm chàm- Con không yêu người ăn cơm quên ruộng-
Được ăn cá quên sông... Cái cảnh chia tay cuối cùng trong Mối
tình Mường Sinh là một cảnh thăng hoa đầy tâm trạng: hai người ghì
riết nhau, miệng chàng trai giật tung một chiếc cúc bạc trên ngực áo
cóm của người yêu, rồi cô gái trao chiếc cúc áo ấy cho chàng trai như
một vật thề nguyền... Một khung cảnh thật giản dị nhưng cũng đầy lãng mạn và
rất Thái. Nhà thơ Vương Trung cả đời sống hết lòng giữa đồng bào mình, bén
duyên tình chồng vợ với người con gái Thái, nên cái trữ lượng văn hoá về dân
tộc Thái thật dồi dào. Câu chữ trong trang viết của ông được bảo hiểm bằng một
mạch nguồn văn hoá đầy cá tính, thâm hậu và sống động.
Điều này cũng cắt nghĩa tại sao những năm gần đây,
Vương Trung cho ra liên tiếp các công trình khảo cứu, biên dịch về văn hoá văn
chương dân tộc Thái: Mo Khuôn (sưu tầm và biên dịch, VHDT
1999), Nhà sàn Thái cổ Việt Nam (VHDT, 2000), Táy
Pú Xấc (thơ dân tộc Thái, sưu tầm,VHDT, 2003), Chương Han (sử
thi dân tộc Thái, VHDT, 2005), sắp xuất bản cuốn Lễ tang xưa của người
Thái... Ông rất thạo chữ Thái cổ. Một số thày cô giáo và sinh viên các
trường đại học, cao đẳng quanh đấy vẫn vác sách đến hỏi chữ ông. Những lúc ngơi
tay viết, ông lại lang thang. Cái máu sục sạo, tìm đãi vào kho tàng dân gian
Thái cuối bản cùng mường đã ngấm vào cốt tuỷ Vương Trung tự lúc nào. Những
người dân thị trấn Châu Thuận hôm nay quá quen với hình ảnh một người già dáng
hơi cao, đầu đội mũ nồi đen, bộ dạng giống ông giáo về hưu, vai đeo túi thổ
cẩm, lặng lẽ đi bộ một mình, hoặc lóc cóc đạp chiếc xe cũ kỹ xuống các bản xa.
Đó là những khi ông đi về với bà con, với các nghệ nhân dân gian, hoặc chỉ với
một câu thơ câu chuyện dân gian nào đó mà ông vừa nghe thấy ai nhắc đến. Đơn
giản hơn, ông đi thăm thú bà con chung quanh khi việc vui việc buồn đời người
cứ trôi như nước chảy. Ông sống giữa lòng cuộc sống của đồng bào mình. Có một
chi tiết thật thú vị: tên đầy đủ của nhà thơ là Lường Vương Trung. Mà người
Thái Châu Thuận quê ông từ xa xưa đã lưu truyền câu: “Lường làm Mo, Lò làm
Tạo”, nghĩa là người họ Lường chuyên đi làm Mo - người chủ văn hoá của bản
mường, còn người họ Lò chuyên đi làm quan trong vùng. Một ông Mo trong cộng
đồng dân tộc Thái là người có khả năng thuộc hầu hết các tác phẩm truyền miệng
hoặc thành văn của dân tộc mình, là người chủ lễ các cuộc lễ lớn của bản, là
người trong đời sống thường ngày luôn được bà con tin cậy tìm đến để xin những
lời khuyên nhủ... Ông Mo thực sự là một “thủ lĩnh” tinh thần của
cộng đồng bản mường. Thì Vương Trung cũng có thể xem như một ông Mo của thời
hiện đại, một hiện thân văn hoá, người góp phần nuôi giữ ngọn lửa văn hoá dân
tộc Thái cho nhiều thế hệ người Thái mai sau. Và không chỉ cho người Thái.
Hỏi Vương Trung: “Sao sống trong hẻm rừng Châu Thuận
lặng lẽ này mà anh làm được lắm thứ thế?”. Ông cười hiền lành, rủ rỉ như cách
đây hai mươi năm vẫn rủ rỉ hiền lành như vậy: “ Mình không làm thì rồi chẳng
biết có ai làm không. Thôi thì...”. Bỏ lửng câu nói, ông với lấy chai rượu rót
tiếp. Rượu ngâm táo mèo để đã ngấu, vàng óng như mật. Hai anh em nâng cốc. Khà
một cái. Vương Trung khoe Nguyễn Anh Tuấn đạo diễn điện ảnh vừa rời khỏi đây
tuần trước. Tuấn lên lần này để chuẩn bị khởi quay bộ phim cùng tên chuyển thể
từ tiểu thuyết Mối tình Mường Sinh do chính Vương Trung làm
kịch bản. À, thì ra là thế. Trong số những người xuôi xa Tây Bắc, Nguyễn Anh
Tuấn là kẻ “nghiện” miền Tây trầm trọng nhất. Thoáng cái đã chiều tà. Nhìn qua
cửa sổ nhà sàn, một vườn mận mé nhà trong chiều cuối năm trông toàn cành là cành,
khẳng khiu, phấn mốc. Cũng giống như suốt dọc đường Tây Bắc, thỉnh thoảng lại
một vạt rừng đào mận phấn mốc khẳng khiu như vậy. Trông hiu hiu Đường Tống thuở
nào... Nhìn sang Vương Trung, tóc đã ngả màu cước. Hỏi ra mới biết bác năm nay
đã vào thất thập rồi. Đời người mau thế.
Bác ở lại nhé, em xuôi đây với những vui buồn khó
nhọc người xuôi. Cứ ngẫm, ở lại chơi với bác ít ngày thì còn được, chứ bảo ở
hẳn nơi bác ở chắc chúng em không có đủ nội lực ẩn sĩ như bác đâu, chúng em còn
nhiều nặng nợ trần ai lắm. Thôi thì trong hành trang em mang về xuôi lần này,
xin được lẩm nhẩm đường trường câu thơ của bác với hy vọng có dịp vận vào em
lấy một lần:
Sương nặng đầu, lửa thân bốc
Em vẫn đợi tình yêu!...
Văn Giá
Thuận Châu- Hà Nội, những ngày cuối năm 2006
Ảnh: Blog "Chọn việc nhẹ nhàng"
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét